Tại Hội nghị, Cục trưởng Đỗ Nhất
Hoàng đã giới thiệu với các đại biểu đến
từ Sở Kế hoạch và Đầu tư; Ban Quản lý các KCN, KCX, KCNC và Trung tâm xúc tiến
đầu tư các địa phương…về tình hình thu hút và quản lý ĐTNN tại Việt Nam trong 11
tháng vừa qua.
Theo đó, Cục trưởng Đỗ Nhất Hoàng
cho biết, trong 11 tháng năm 2019 vốn giải ngân đạt 17,6 tỷ USD, tăng 6,8% so
với cùng kỳ. Vốn đăng ký 31,8 tỷ USD, tăng 3,1%. Vốn cấp mới và tăng thêm giảm
nhưng số lượng dự án mới, tăng vốn mạnh (tăng 28,2% và 18,6%) thể hiện xu hướng
đầu tư nước ngoài đang tăng.
Đầu tư theo hình thức góp vốn, mua
cổ phần có xu hướng ngày càng tăng, năm 2017 chiếm 17,02%, năm 2018 chiếm
27,78%, 11 tháng 2019 chiếm 35,3%. Đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến, chế
tạo chiếm 67,81%. Trong năm 2019, số lượng các đoàn sang làm việc, tìm hiểu cơ
hội đầu tư tăng khá mạnh, tăng khoảng 30% so với cùng kỳ năm 2018.
Với địa bàn phía Bắc, Cục trưởng
nhấn mạnh về một số điểm sáng trong thu hút ĐTNN trong đó có một số tỉnh như:
Hà Nam, Bắc Giang…
Giới thiệu những nội dung nòng cốt
của Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn
thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước
ngoài đến năm 2030. Cục trưởng Đỗ Nhất Hoàng nhấn mạnh, Nghị quyết đã nêu rõ
quan điểm chỉ đạo về khu vực kinh tế có vốn ĐTNN là bộ phận hợp thành quan
trọng của nền kinh tế Việt Nam, được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển lâu
dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với các khu vực kinh tế khác. Xây dựng,
hoàn thiện thể chế, chính sách về đầu tư nước ngoài phù hợp xu hướng phát
triển, tiếp cận chuẩn mực tiên tiến quốc tế và hài hoà với các cam kết quốc tế,
bảo đảm sự đồng bộ, nhất quán, công khai, minh bạch và tính cạnh tranh cao. Chủ
động thu hút, hợp tác ĐTNN có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ cao
và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu. Đa phương hóa, đa dạng hóa
đối tác, hình thức đầu tư. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả
quản lý của Nhà nước, vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị, xã
hội.
Phấn đấu khu vực có vốn ĐTNN đạt một số mục tiêu chủ yếu: Vốn đăng ký giai
đoạn 2021 - 2025 khoảng 150 - 200 tỉ USD (30 - 40 tỉ USD/năm), giai đoạn 2026 -
2030 khoảng 200 - 300 tỉ USD (40 - 50 tỉ USD/năm). Vốn thực hiện giai đoạn 2021
- 2025 khoảng 100 - 150 tỉ USD (20 - 30 tỉ USD/năm), giai đoạn 2026 - 2030
khoảng 150 - 200 tỉ USD (30 - 40 tỉ USD/năm). Tỉ lệ doanh nghiệp sử dụng công
nghệ tiên tiến, quản trị hiện đại, bảo vệ môi trường, hướng đến công nghệ cao
tăng 50% vào năm 2025 và 100% vào năm 2030 so với năm 2018. Tỉ lệ nội địa hoá
tăng từ 20 - 25% hiện nay, lên mức 30% vào năm 2025 và 40% vào năm 2030. Tỉ
trọng lao động qua đào tạo trong cơ cấu sử dụng lao động từ 56% năm 2017 lên
70% vào năm 2025 và 80% vào năm 2030.
Để thực hiện các mục tiêu đề ra, cần
tập trung các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu. Theo đó, cần thực hiện các giải pháp
như xây dựng bộ tiêu chí chọn lọc về suất đầu tư, sử dụng lao động, công nghệ,
môi trường, giá trị gia tăng nội địa, khả năng liên kết, lan tỏa,…Ưu đãi đầu tư
theo kết quả đầu ra như mức độ tham gia chuỗi giá trị, giá trị gia tăng nội
địa, hợp phần sử dụng công nghệ cao, nghiên cứu và phát triển, đổi mới sáng
tạo, trách nhiệm xã hội… Áp dụng nguyên tắc ưu đãi đầu tư gắn với việc đáp ứng
các điều kiện, cam kết cụ thể và cơ chế hậu kiểm, yêu cầu bồi hoàn khi vi phạm
các cam kết. Nâng cao các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về sản phẩm, môi
trường, tài nguyên và tiết kiệm năng lượng phù hợp với tiêu chuẩn của khu vực
và thế giới. Xây dựng cơ chế đánh giá an ninh và tiến hành rà soát an ninh đối
với các dự án, hoạt động ĐTNN có hoặc có thể ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.
Đồng thời, phải tăng tính cạnh tranh
thu hút dòng vốn ĐTNN. Theo đó, phải xây dựng danh mục hạn chế, không thu hút ĐTNN
theo phương pháp chọn bỏ. Ngoài danh mục này, nhà ĐTNN được đối xử bình đẳng
như nhà đầu tư trong nước. Khuyến khích nhà ĐTNN gia nhập thị trường ở những
ngành, lĩnh vực mà Việt Nam không có nhu cầu bảo hộ. Xây dựng cơ chế khuyến
khích bổ sung đối với các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, chấp hành tốt cam
kết, mở rộng đầu tư tại Việt Nam. Xây dựng thể chế, chính sách ưu đãi vượt
trội, cạnh tranh quốc tế. Khuyến khích, ưu đãi thỏa đáng để tăng liên kết giữa ĐTNN
và đầu tư trong nước; phát triển cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị, góp phần
nâng cao giá trị gia tăng nội địa, sức cạnh tranh của sản phẩm và vị trí quốc
gia trong chuỗi giá trị toàn cầu. Khuyến khích đối với doanh nghiệp ĐTNN đào
tạo, nâng cao kỹ năng trình độ cho lao động Việt Nam; sử dụng người lao động
Việt Nam đã làm việc, tu nghiệp ở các quốc gia tiên tiến.
Bên cạnh đó, Cục trưởng Đỗ Nhất
Hoàng cũng phân tích rõ về bối cảnh, tình hình mới, cơ hội và thách thách có
thể tác động đến thu hút ĐTNN...
Tại Hội thảo, các đại biểu đã đánh
giá cao bài phát biểu của Cục trưởng Đỗ Nhất Hoàng và những kết quả tích cực
trong thu hút ĐTNN thời gian qua. Đồng thời, các đại biểu nêu rõ một số thắc
mắc đang tồn tại ở địa phương cần giải quyết, trong quá trình tổ chức thực hiện
công tác xúc tiến đầu tư và quản lý dự án đầu tư nước ngoài. Cụ thể, như về
tình hình góp vốn mua cổ phần; xúc tiến đầu tư trong bối cảnh mới; các giải
pháp để thu hút đầu tư có chọn lọc; quản lý dự án sau cấp giấy chứng nhận đăng
ký đầu tư; cơ chế phối hợp giữa trung ương và địa phương, giữa các địa phương;
ngăn ngừa tranh chấp, khiếu kiện Chính phủ…
Trước các vướng mắc của địa phương,
Cục trưởng Đỗ Nhất Hoàng cùng đại diện Vụ Pháp chế, Cục Quản lý Đăng ký kinh
doanh…cũng đã có những trả lời, giải
thích cặn kẽ.
Kết thúc Hội nghị, Cục trưởng Đỗ Nhất Hoàng đánh giá cao những góp ý, đề
xuất của các đại biểu tham dự và hy vọng, bằng thực tiễn công tác tại địa
phương, các đại biểu sẽ tiếp tục tham gia góp ý đối với dự thảo Luật đầu tư
(sửa đổi) và Luật doanh nghiệp (sửa đổi) và có những trao đổi thường xuyên với Cục ĐTNN…Qua đó góp
phần thúc đẩy và nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý hoạt động ĐTNN.
BK